Bệnh Liên cầu khuẩn Streptococcus trên heo

Bệnh Liên cầu khuẩn Streptococcus trên heo

Streptococcus suis là loại liên cầu khuẩn quan trọng nhất trên heo gây ra bệnh viêm phổi, nhiễm trùng huyết, viêm khớp và viêm não và cũng có tầm quan trọng cộng đồng vì khả năng lây truyền bệnh từ động vật sang người.

Các tên khác: Streptococcus suis, Streptococcus equisimilis, Streptococcus porcinus

 

Thông tin

Liên cầu khuẩn là vi sinh vật phổ biến ở tất cả các loài động vật. Thông thường, nhưng không phải lúc nào cũng thế, chúng gây bệnh theo từng loài. Loài chính hiện diện ở heo là Streptococcus suis, phổ biến khắp các đàn heo. Nó có liên quan đến nhiều loại bệnh bao gồm viêm màng não, nhiễm trùng huyết, viêm đa khớp, viêm khớp, viêm nội tâm mạc và viêm phổi. Nó cũng đã được phân lập trong các trường hợp sảy  thai và viêm mũi. Mô hình và tầm quan trọng tương đối của các hội chứng khác nhau thay đổi theo quốc gia.

S. suis được chia thành ít nhất ba mươi lăm serotype. Chúng khác nhau về khả năng gây bệnh và các triệu chứng lâm sàng do chúng gây ra, giữa và trong từng serotype khác nhau. Một số type dường như không gây bệnh và được phân lập chủ yếu từ heo khỏe mạnh, một số chủ yếu liên quan đến bệnh tích phổi và một số được phân lập từ động vật khác ngoài heo. Một số type, đặc biệt là type 2, ngoài heo ra có thể gây viêm màng não ở người. May mắn là các ca bệnh trên người rất hiếm.

Đối với người nông dân, điều quan trọng và đáng lo ngại là bệnh viêm màng não đặc hữu do type 2. Những con vật khỏe mạnh về mặt lâm sàng có thể mang vi khuẩn này trong amiđan của chúng trong nhiều tháng và có những con nái là vật mang trùng. Hiện vẫn chưa có phương pháp nào để diệt trừ một serotype nào một khi nó đã xâm nhập vào trại và trở thành một phần của hệ vi sinh bình thường. Sử dụng các chất sát trùng trong các trang trại có thể loại bỏ nhanh chóng S. suis, bao gồm chất sát trùng phenolic, với clo và iodophor. Chất tẩy rửa cũng có thể loại bỏ vi sinh vật này trong ba mươi phút.

Nái truyền kháng thể qua sữa non cho heo con đang bú và do đó bệnh này hiếm gặp ở nhóm này trừ khi bệnh mới xâm nhập trại lần đầu. Phổ biến hơn là thấy bệnh bắt đầu 2 hoặc 3 tuần sau khi cai sữa và tiếp tục cho đến 16 tuần tuổi. Trong khu đẻ, gần như 100% heo trở thành vật mang trùng trong ba tuần.

PRRS cũng có thể làm tăng tỷ lệ mắc bệnh viêm màng não do các chủng gây bệnh khi nó mới xâm nhập vào trang trại.

Các loài Streptococcus khác ngoài S. suis có thể gây bệnh cho heo. Ví dụ, Streptococcus equisimilis gây ra các trường hợp nhiễm trùng huyết và viêm khớp lẻ tẻ ở heo con đang bú, nhiễm trùng van tim ở heo choai và nhiễm trùng tử cung ở nái. Ở Mỹ, Streptococcus porcinus gây áp xe ở cổ họng và nhiễm trùng huyết, và đôi khi được phân lập từ các trường hợp viêm phổi. Tuy nhiên, các trường hợp áp xe họng do liên cầu đã trở nên hiếm thấy ở các cơ sở chăn nuôi heo hiện đại.

Triệu chứng

Nái

  • Hiếm thấy.
  • Sảy thai.
  • Nhiễm trùng huyết.

Heo con theo mẹ, heo cai sữa và xuất chuồng

  • Viêm khớp lẻ tẻ.

  • Đột tử.
  • Co giật.
  • Đầu nghiêng một bên.
  • Chuyển động mắt co giật một bên (rung giật nhãn cầu – nystagmus).
  • Động vật nằm nghiêng, có chuyển động bơi mái chèo và tạo bọt trong miệng.
  • Đau chân.
  • Áp xe.
  • Nhiễm trùng huyết.
  • Viêm đa thanh mạc.

Nguyên nhân / Yếu tố đóng góp

  • S. suis chủ yếu lây truyền trong quá trình đẻ qua đường sinh (âm đạo).
  • Hậu bị hoặc nọc giống mang trùng.
  • Nó cũng có thể lây truyền trong nội bộ trại bằng cách tiếp xúc gián tiếp.
  • Mật độ heo cao trong khu cai sữa.
  • Luồng sản xuất liên tục.
  • Đồng nhiễm PRRS.
  • Ghép heo sau cai sữa.
  • Thông thoáng kém và độ ẩm cao.
  • Stress.

Chẩn đoán

  • Tiền sử phát đi phát lại bệnh viêm màng não ở heo cai sữa là rất đáng chú ý; xác nhận bằng cách phân lập vi khuẩn từ não.
  • Phân lập S. suis từ khớp, tim, gan, lá lách, thận, hoặc viêm đa thanh mạc.
  • Do sự tồn tại của các chủng không gây bệnh hoặc chỉ gây bệnh ở mức độ trung bình; việc phân lập S. suis type 2 từ amidan của heo rất khó đánh giá.

Kiểm soát/Phòng ngừa

  • Cần bắt đầu điều trị ngay khi bệnh được chẩn đoán.
  • Tiêm bắp penicillin, cephalosporin hoặc các kháng sinh khác.
  • Có thể được áp dụng chiến lược dùng thuốc qua đường nước uống.
  • Sử dụng vaccine có thể hữu ích, đặc biệt là ở nái trước khi đẻ.

Nguồn: internet